Luật Lao Động Về Việc Tăng Ca
Ca dao Việt Nam là tấm gương phản chiếu đời sống và tâm hồn người dân lao động. Trong mỗi câu ca dao, người đọc không chỉ thấy hình ảnh lao động sản xuất gắn bó với đất nước, mà còn cảm nhận được tinh thần lạc quan, sự cần cù và tình yêu thương chan hòa giữa con người với thiên nhiên.
Trợ cấp nghỉ việc theo quy định mới nhất
Luật lao động về nghỉ việc quy định về việc trợ cấp cho người lao động khi nghỉ việc. Trợ cấp nghỉ việc bao gồm trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc làm. Chi tiết các trường hợp người lao động được hưởng trợ cấp sau khi nghỉ việc như sau:
Trợ cấp nghỉ việc được tính dựa trên thời gian làm việc và mức lương đóng BHXH
Lao động và tình yêu thiên nhiên
Ca dao Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc ca ngợi công việc mà còn khắc họa mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên:
“Trời mưa lâm râm, cây trâm có trái,Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang.”
Lời nhắn nhủ chân thành, mộc mạc mà đầy ý nghĩa. Người nông dân coi trọng từng tấc đất, bởi đất chính là nguồn sống, là nơi bắt đầu của mọi mùa vụ.
Giá trị văn hóa từ lao động trong ca dao
Những câu ca dao về lao động không chỉ đơn thuần là lời thơ mà còn chứa đựng bài học sâu sắc. Đó là lòng biết ơn đối với người lao động, là ý thức gìn giữ giá trị truyền thống, và là lời nhắc nhở mỗi người hãy trân trọng những thành quả đạt được.
Ca dao về lao động sản xuất là một phần quan trọng của di sản văn hóa Việt Nam. Qua những vần thơ giản dị nhưng sâu sắc, chúng ta không chỉ thấy được sự vất vả mà còn cảm nhận được vẻ đẹp, niềm vui và sự đoàn kết trong lao động. Đây là nguồn cảm hứng bất tận, luôn nhắc nhở chúng ta về giá trị của công sức và lòng biết ơn với những gì thiên nhiên ban tặng.
Hãy để mỗi câu ca dao tiếp tục sống mãi, như lời tri ân sâu sắc với những người đã xây dựng nên nền móng cho đất nước hôm nay.
Bộ luật lao động năm 2019 chính thức có hiệu lực vào ngày 1/1/2021, vấn đề Luật lao động về nghỉ việc hay việc chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động có thêm nhiều điểm mới đáng chú ý.
Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại Bộ luật lao động 2019
Các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần báo trước
Khi bộ luật lao động 2019 chính thức có hiệu lực từ 1/1/2021, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và nghỉ việc mà không cần phải chịu trách nhiệm hay bồi thường.
7 trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Cụ thể, căn cứ theo Khoản 2, Điều 35, Bộ luật Lao động năm 2019 có 7 trường hợp người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước như sau:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;
b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này;
e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.
Như vậy theo luật mới khi nghỉ việc người lao động đã được bảo vệ quyền lợi cao hơn so với luật cũ.
Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động
Luật lao động về nghỉ việc đã quy định rõ các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động, cũng chính là lúc người lao người lao động chính thức nghỉ việc. Cụ thể, căn cứ theo Điều 34, Bộ luật lao động năm 2019 có 13 trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động như sau:
1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 177 của Bộ luật này.
2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.
3. Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động.
4. Người lao động bị kết án phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc không thuộc trường hợp được trả tự do theo quy định tại khoản 5 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
5. Người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam bị trục xuất theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
6. Người lao động chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết.
7. Người sử dụng lao động là cá nhân chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết. Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.
8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải.
9. Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 35 của Bộ luật này.
10. Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 36 của Bộ luật này.
11. Người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc theo quy định tại Điều 42 và Điều 43 của Bộ luật này.
12. Giấy phép lao động hết hiệu lực đối với người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
13. Trường hợp thỏa thuận nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động mà thử việc không đạt yêu cầu hoặc một bên hủy bỏ thỏa thuận thử việc.
Cơ quan bảo hiểm xã hội, người sử dụng lao động sẽ dựa trên các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động nghỉ việc để xét hưởng các chế độ và chính sách trợ cấp theo quy định.
Tinh thần đoàn kết trong lao động
Không chỉ đề cao sự chăm chỉ, ca dao còn nhấn mạnh tầm quan trọng của đoàn kết và chia sẻ trong lao động:
“Một cây làm chẳng nên non,Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.”
Tinh thần hợp tác là nền tảng của cộng đồng làng xã. Hình ảnh “ba cây chụm lại” giản dị nhưng mang ý nghĩa sâu sắc, cho thấy sức mạnh của tập thể trong việc vượt qua khó khăn và xây dựng cuộc sống.
Một điều thú vị khi đọc ca dao về lao động là cảm giác lạc quan toát lên từ những vần thơ. Lao động, dù vất vả, vẫn luôn gắn liền với niềm vui, sự hứng khởi:
“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.”
Khung cảnh lao động nơi đồng quê được miêu tả sống động, tràn đầy sức sống. Ở đó, mỗi thành viên đều có một vai trò, và họ gắn kết với nhau qua công việc, tạo nên bức tranh gia đình hài hòa.
Điều kiện và mức hưởng trợ cấp thôi việc
Trợ cấp thôi việc được quy định tại Điều 46, Bộ luật lao động 2019. Đối với người lao động chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 9 và 10 Điều 34, Bộ luật lao động này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên. Mức trợ cấp thôi việc được tính như sau:
Mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương, trừ trường hợp đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về BHXH và trường hợp quy định tại Điểm e, Khoản 1, Điều 36 của Bộ luật này.
Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động thôi việc.
Căn cứ theo quy định tại Điều 47, Bộ luật lao động 2019 trợ cấp mất việc làm được quy định: Người sử dụng lao động trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm theo quy định tại Khoản 11, Điều 34 của Bộ luật này. Mức trợ cấp mất việc được tính như sau:
Cứ mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương.
Tiền lương để tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động mất việc làm.
Trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc làm cho người lao động theo bộ luật lao động mới mức hưởng được tính tương tự như cách tính tại Bộ luật lao động cũ. Người lao động khi nghỉ việc cần nắm được điều kiện hưởng trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc để đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình.
Trên là luật lao động về nghỉ việc mà doanh nghiệp và người lao động cần nắm được để đảm bảo chủ động trong công việc. Người lao động khi tham gia BHXH quý doanh nghiệp vui lòng truy cập địa chỉ website: https://ebh.vn để có thể tìm hiểu thêm thông tin liên quan đến các chế độ của và cập nhật những quy định mới nhất.
Những con người cần lao, sớm khuya bên những công trường, xưởng máy... đi vào thơ ca một cách tự nhiên, gần gũi.Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận là một điển hình về hình ảnh người lao động trong thơ. Bên cạnh bức tranh thiên nhiên vùng biển đẹp, trù phú, thơ mộng thì bài thơ còn khắc họa thành công hình ảnh người ngư dân lao động đánh bắt cá chứa chan sức sống, khỏe khoắn, tươi vui tràn đầy tinh thần hăng say trong công việc.
Mở đầu bài thơ là những con người hăng say, miệt mài lao động không quản ngày đêm làm giàu cho quê hương, đất nước:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa/ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/ Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Giữa lúc thiên nhiên nghỉ ngơi, thì con người lại lao vào công cuộc lao động, giống như bao nhiêu năm tháng đã qua đoàn thuyền đánh cá vẫn tiếp tục ra khơi không ngừng nghỉ.Con người lao động không mệt mỏi, luôn vững tinh thần, công việc, dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán vẫn mang đến những cảm giác, phấn chấn, náo nức, say mê. Tiếng ca của con người hợp sức với ngọn gió biển khơi cùng nhau thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền về khơi xa. Những câu hát thể hiện niềm say mê phấn chấn, lạc quan của con người trong lao động
“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng/ Cá thu biển Đông như đoàn thoi/ Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng/ Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Xuyên suốt bài thơ, tiếng hát của người lao động cứ réo rắt, ngân nga, vang vọng giữa biển trời thật vui tươi, sống động. Điều đó không chỉ cho thấy tinh thần lao động đầy hăng say, hào hứng mà còn mở ra một tâm hồn đầy lạc quan, đầy tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống mới của người ngư dân miền biển.
Đoàn thuyền đánh cá là khúc tráng ca bất tận về công cuộc lao động và chinh phục thiên nhiên biển cả của con người. Tầm vóc của con người trở nên lớn lao, kì vĩ với những vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn và sức mạnh trong công cuộc chinh phục biển cả. Nhà thơ Huy Cận đã thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp của người lao động và không khí của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng năm sau cách mạng tháng Tám ở miền Bắc.
Có những con người "bình thường" mà vĩ đại, những con người không tuổi không tên trong cuộc sống đời thường nhưng lại là những con người đáng quí, đáng trân trọng. Họ đã âm thầm góp công sức của mình làm đẹp thêm cuộc sống. Hình ảnh những con người ấy cũng ghi dấu ấn sâu đậm trong thơ ca Tố Hữu với bài thơ nổi tiếng “Tiếng chổi tre”. Nhìn những người công nhân quét rác, nghe tiếng chổi xào xạc trên đường phố, những âm thanh thật thô sơ khiến nhà thơ xúc động và biến nó thành nhạc thành thơ. Thế là bài thơ "Tiếng chổi tre" được ra đời... Bài thơ được hình thành từ cuộc sống bình dị nhưng chứa đựng những tình cảm đẹp đẽ, những ý tưởng lớn lao.
“Những đêm đông/ Khi cơn dông vừa tắt.../ Chị lao công đêm đông quét rác.../ Tôi đứng trông/ Trên đường lặng ngắt/ Chị lao công như sắt như đồng”.
Hình ảnh chị lao công rắn rỏi, hiên ngang. Cơn dông nổi lên, rồi con đông tắt lịm, đêm hè rồi đêm đông... Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù thời tiết ra sao, chị cũng không rời vị trí, không buông lơi công việc chị vẫn làm việc một cách âm thầm, gieo vào lòng người đọc một cảm tưởng đẹp đẽ về những con người làm những công việc bình thường mà đáng quý ấy.
Nguyễn Thành Long là nhà văn quen thuộc với bạn đọc yêu thích truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” là một tác phẩm điển hình về người lao động được biết đến trong sách giáo khoa, nơi mỗi người trải qua đời học sinh đều được đọc, được nghe bài giảng về hình tượng người lao động trong văn chương.
“Lặng lẽ Sa Pa” được nhà văn Nguyễn Thành Long viết sau chuyến nhà văn đi thực tế ở Sa Pa. Qua nhân vật anh thanh niên và một số nhân vật khác, tác giả ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của những con người lao động mới đang ngày đêm âm thầm cống hiến cho đất nước.
Hình ảnh người lao động trong văn đàn, thơ ca rất lung linh, rất thiêng liêng, thể hiện sức sống mãnh liệt của thế hệ đoàn viên công đoàn qua suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Như tác giả Nguyễn Thị Thanh Hà, nguyên Phó Chủ tịch Liên đoàn lao động thành phố Hà Nội từng viết những câu thơ:
“Cùng với công nhân đồng hành trong cuộc sống/ Vất vả bao nhiêu cũng gắng để vượt qua/ Sáng tạo không ngừng để tọa chí, thăng hoa/ Hiệu triệu đoàn viên cùng xây đời hạnh phúc”.
Trong “Lặng lẽ Sa Pa”, anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh núi cao Yên Sơn và sống một mình với cây cỏ, mây mù lạnh lẽo và một số máy móc khoa học. Công việc của anh là đo gió, đo mưa, dự báo thời tiết. Công việc ấy đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác. Mỗi ngày anh đo và báo số liệu về trạm bốn lần. Nửa đêm, đúng giờ ốp dù mưa tuyết, gió rét thế nào thì anh vẫn phải trở dậy làm việc.
Xách đèn ra vườn, gió tuyết vù lặng im ờ bên ngoài như chi chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: Nỏ như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì như những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… nhưng cái gian khổ nhất của anh lại là sự đơn độc.
Trong điều kiện khắc nghiệt như vậy nhưng những người lao động ấy vẫn nhiệt tình, hăng say, mang hết sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc.Nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” là hiện thân của vẻ đẹp người lao động một thời, đó là hình ảnh người con ưu tú của quê hương trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nếu như “Lặng lẽ Sa Pa” là một tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu thời kỳ sau chiến tranh xây dựng miền Bắc, thì “Đất bỏng” của nhà văn Trần Tâm lại là cuốn tiểu thuyết hiện đại mang đậm chất “sử thi” về hình ảnh người lao động trải qua những cơn “ba đào” của chiến tranh.
Năm 2014, trong Cuộc vận động viết về đề tài công nhân và công đoàn Việt Nam giai đoạn 2010-2014 do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phát động, “Đất bỏng” đã được trao giải nhất thể loại Văn xuôi.
Trần Tâm là thợ mỏ trước khi là nhà văn, ông cầm búa, cầm choòng, cầm vô lăng xe gạt trước khi cầm bút viết văn. Với 4 tập truyện dày gần 1.500 trang sách, cuốn tiểu thuyết đã kể về vùng đất Cẩm Phả suốt chiều dài hơn một thế kỷ, góp phần cho người đọc một cái nhìn toàn cảnh về sự hình thành và phát triển của lực lượng công nhân mỏ.
Hệ thống nhân vật trong “Đất bỏng” là những số phận những mảnh đời đi qua một miền đất hừng hực nhựa sống với nắng gió với bụi bặm khai trường, nhưng cũng bỏng rát trước cơn ba đào của chiến tranh, của khốn khó và khắc nghiệt. Mỗi số phận, mỗi cuộc đời đều gắn bó hữu cơ với lịch sử hào hùng của vùng than.
Cũng chính những con người nơi đất bỏng đã “cháy” hết mình để hình thành, dựng xây và phát triển một đô thị công nghiệp vạm vỡ và năng động hiện nay. Do đó, tiểu thuyết đã mang đậm tính sử thi. Cho đến thời điểm này, “Đất bỏng” của Trần Tâm là bộ tiểu thuyết đồ sộ nhất, có thời gian nghệ thuật dài nhất khi viết về công nhân mỏ. Đây cũng là cuốn sách khẳng định tên tuổi của Trần Tâm.
Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, có rất nhiều ca khúc tôn vinh những người lao động, những con người đã cống hiến, tâm huyết hết mình để góp phần tạo nên những công trình có ý nghĩa to lớn với sự phát triển của đất nước cả thời chiến lẫn thời bình. Một trong những ca khúc ấy phải kể đến “Những ánh sao đêm” - sáng tác của cố nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu được đông đảo công chúng yêu thích và sống mãi với thời gian.
Bài hát được cố nhạc sĩ viết vào năm 1962, bắt nguồn từ những cảm xúc của nhạc sĩ khi vào một đêm hè, từ căn phòng nhỏ của mình trên tầng cao, ông nhìn về phía khu tập thể Kim Liên đang xây dựng và thấy dưới ánh đèn công trường lấp lánh như ánh sao là sự tấp nập, hối hả làm việc của công nhân và từ đó tác phẩm “Những ánh sao đêm” dần được hình thành.Và có thể nói, vào những năm 60, 70 của thế kỷ 20, bài hát “Những ánh sao đêm” như khúc tình ca lãng mạn của những người công nhân xây dựng.
“Dòng sông mát xanh vòng quanh phố phường và nhiều công trường xây niềm vui mới/ Khi bóng đêm trở về rực ánh đèn lên em thấy như muôn ngàn vì sao thêu trong đêm tối/ Em ơi tuy giờ đây hai miền còn cách xa/ Niềm chia cắt thắt đau lòng chúng ta/ Nhưng không thể xóa được hình bóng em/ Dù xa nhau trọn ngày đêm, anh càng yêu em càng hăng say xây cho nhà cao cao mãi/ Ôi xinh đẹp Tổ quốc của ta...”
Bài hát “Những ánh sao đêm” tuy cũng được xếp vào những bài hát viết về đề tài xây dựng, nhưng khác với nhiều bài hát khác cũng viết về đề tài xây dựng với hình tượng anh thợ xây hay chị quét vôi, bài hát chủ yếu nói về tình cảm của người thợ xây dành cho người yêu phương xa trong hoàn cảnh đất nước còn bị chia cắt, nhưng hình ảnh người thợ xây lại vô cùng lãng mạn, gần gũi.
Hình ảnh người lao động tin yêu cuộc sống còn được khắc họa sinh động trong ca khúc “Bài ca xây dựng” của cố nhạc sĩ Hoàng Vân. Lời hát rộn ràng, tràn ngập niềm vui:
“Bạn đời ơi, bạn có nghe chăng niềm vui của những người dọn đến ngôi nhà mới mà chúng tôi vừa xây xong…” rồi nhịp nhàng, lôi cuốn để dẫn lên đỉnh cao của tình cảm:
“Bạn đời ơi, hãy tin hãy yêu và hát cùng chúng tôi, những người thợ xây tin yêu cuộc đời mới”.
Tác giả đã lấy cảm xúc từ hình ảnh những người dân kiên cường, bất khuất khi phải đảm đương một lúc hai trách nhiệm trên vai, vừa chiến đấu đánh giặc vừa lao động, xây dựng quê hương khi đất nước chìm trong bom đạn.
Có thể nói “Bài ca xây dựng” được cố nhạc sĩ Hoàng Vân cho ra đời như lời ca ngợi tinh thần kiên cường của người dân Việt Nam, là một trong những ca khúc rất thành công về một ngành nghề cụ thể trong xã hội. Bài hát cũng lý giải tại sao những ca khúc của ông lại được người nghe yêu mến và đồng cảm đến vậy, bởi ông viết về ngành nghề nhưng có tình người, có bóng dáng và cuộc sống thường ngày của con người.
Và một tác phẩm nữa về người lao động của nhạc sĩ Hoàng Vân cũng trở thành ca khúc sống mãi với thời gian, mà trong đó, hình tượng người lao động trở nên rõ nét và hùng tráng, đó là ca khúc “Tôi là người thợ lò”.
Những năm 60 của thế kỷ 20, dưới sự hối thúc của trách nhiệm công dân và niềm hứng khởi của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, nhạc sĩ Hoàng Vân cùng nhiều nhạc sĩ gạo cội khác đã có những chuyến đi thực tế đến vùng mỏ. Bài hát ra đời năm 1964, sau chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh, nhạc sĩ Hoàng Vân tận mắt chứng kiến những người thợ lò sống và làm việc trong hoàn cảnh hết sức khó khăn.
Lần đầu tiên Mỹ thả bom đánh phá ác liệt thị xã Hòn Gai và vịnh Hạ Long, nhưng những người thợ lò không chùn bước. Họ vẫn hiên ngang vững bước vào lò lao động sản xuất với tinh thần hăng say, yêu nghề và trên hết là một lòng hướng về Tổ quốc theo lời kêu gọi của Bác Hồ “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, nhạc sĩ Hoàng Vân đã sáng tác ca khúc “Tôi là người thợ lò”. Bài hát thường xuyên được biểu diễn tại các hội diễn văn nghệ quần chúng của ngành than cũng như của tỉnh Quảng Ninh và được nhiều thế hệ thợ mỏ yêu thích.
“Tôi là người thợ lò” là trường ca đi cùng năm tháng, có vai trò “đóng đinh” một giai đoạn âm nhạc viết về thợ mỏ, đã trở thành điểm tựa, là hướng phấn đấu của mỗi nhạc sĩ hôm nay khi viết về thợ mỏ. “Tôi là người thợ lò” cũng là một trường ca mẫu mực mà sau này chưa có nhạc sĩ nào vượt qua được khi viết về đề tài người thợ mỏ.
Xuyên suốt cả bài hát, những động từ mạnh được lặp lại nhiều lần đã thể hiện được phần nào tâm thế vào lò hào sảng, kiêu hãnh và đầy tự tin của anh em đất mỏ. Công việc gian khó, nguy hiểm là thế, nhưng thợ lò chưa bao giờ lùi bước, họ vẫn kiên cường bám trụ trước mỗi gương than, đường lò. Vì họ hiểu rằng “càng gian khổ càng nhiều vinh quang”.